Chiến tranh Chiến_tranh_nha_phiến_lần_thứ_nhất

Các động thái ban đầu

Giao tranh giữa các tàu chiến AnhTrung Quốc trong trận Xuyên Tỵ lần thứ nhất, 1839.

Các lực lượng hải quân Trung Quốc tại Quảng Châu nằm dưới sự chỉ huy của Đô đốc Quan Thiên Bồi, người đã chiến đấu tại Xuyên Tỵ. Quân đội miền nam nhà Thanh và các đơn vị đồn trú nằm dưới sự chỉ huy của tướng Dương Phương. Tổng chỉ huy chủ yếu tập trung trong tay Hoàng đế Đạo Quang và triều đình. Chính phủ Trung Quốc ban đầu tin rằng, như trong vụ Napier năm 1834, người Anh sẽ bị trục xuất thành công lần nữa. Ít sự chuẩn bị được thực hiện để đề phòng một cuộc phản công của Anh và các sự kiện dẫn đến sự bùng nổ cuối cùng của chiến tranh Trung-Sikh năm 1841 được coi là một nguyên nhân lớn hơn gây lo ngại.

Vào năm 1839, sau khi nạp nha phiến, Charles Elliot mấy lần gửi báo cáo cho Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng H. Palmerston kiến nghị cấp tốc hành động, cũng xin Tổng đốc Ấn Ðộ phái quân hạm đến. Vào đầu tháng 8, thương gia tại Luân Ðôn hội họp thảo luận các vấn đề đối với Trung Hoa, cùng với hiệp hội Ấn Ðộ và Trung Quốc [thành lập năm 1836] nhấn mạnh các điều: buôn bán nha phiến có lợi cho nước Anh nên cần phát triển, cưỡng bách Trung Quốc bồi thường số nha phiến bị thu, mở rộng các cảng khẩu tại duyên hải và sông Trường Giang, thương nhân Trung, Anh trực tiếp giao dịch, người Anh được mang quyến thuộc đến cư trú nếu như Trung Quốc không chịu mở cảng khẩu thì buộc phải cắt nhượng các đảo. Lại cho rằng lúc này là thời cơ thích hợp đánh Trung Quốc, vũ lực có thể thu hiệu quả ngoài mong ước. Dư luận nước Anh thì rúng động vì nghe những tin tức tuyên truyền thổi phồng như: quan dân nước Anh tại Trung Quốc bị bạo lực hiếp chế, mất tự do, bị giam cầm đến sắp chết đói, lại uy hiếp đòi xử tử... Thương gia tại các thành thị lớn cũng rầm rộ gửi thư cho chính phủ Anh yêu cầu bảo hộ quyền lợi thương gia tại Trung Quốc. Ngày 18/10/1839, Palmerston báo cho Charles Elliot biết rằng Anh sẽ mang quân đến. Tháng giêng năm 1840, Nữ hoàng Victoria diễn thuyết tại quốc hội nội dung mật thiết lưu ý đến quyền lợi người Anh tại Trung Quốc.

Không có cơ sở hoạt động chính ở Trung Quốc, người Anh cho sơ tán thuyền thương nhân của họ khỏi khu vực trong khi vẫn duy trì hải đoàn Trung Quốc của Hải quân Hoàng gia tại các đảo quanh cửa sông Châu Giang. Từ London, Palmerston tiếp tục giám sát các hoạt động ở Trung Quốc, ra lệnh cho Công ty Đông Ấn chuyển hướng quân đội khỏi Ấn Độ để chuẩn bị cho một cuộc chiến hạn chế chống lại Trung Quốc. Họ đã quyết định rằng cuộc chiến sẽ không được chiến đấu như một cuộc xung đột toàn diện, mà là một cuộc viễn chinh trừng phạt. Tổng giám đốc Elliot vẫn phụ trách các lợi ích của Anh tại Trung Quốc, trong khi đó, Gordon Bremer lãnh đạo Thủy quân lục chiến Hoàng giaHải đoàn Trung Quốc. Thiếu tướng Hugh Gough được chọn để chỉ huy lực lượng trên bộ của Anh, và được thăng chức thành tổng chỉ huy lực lượng Anh tại Trung Quốc. Chi phí chiến tranh sẽ được Chính phủ Anh chi trả. Theo thư của Hầu tước Palmerston, các kế hoạch đã được người Anh lập ra để tiến hành một loạt các cuộc đột kích vào các cảng và cửa sông Trung Quốc.

Các kế hoạc thành lập một lực lượng viễn chinh của Anh đã được bắt đầu ngay sau cuộc bỏ phiếu tháng 1 năm 1840. Nhiều trung đoàn bộ binh được tổng động viên ở các hòn đảo của Anh và việc hoàn thành các con tàu đang trong quá trình xây dựng đã được tiến hành. Để tiến hành cuộc chiến sắp tới, Anh cũng bắt đầu lấy lực lượng từ các lãnh thổ hải ngoại của mình. Ấn Độ thuộc Anh đã chuẩn bị cho một cuộc chiến kể từ khi có tin rằng thuốc phiện bị phá hủy, và một số trung đoàn tình nguyện viên người Bengal đã được tuyển mộ để bổ sung cho lực lượng của Quân đội Ấn Độ và Công ty Đông Ấn thông thường. Về mặt lực lượng hải quân, những con tàu được dành cho cuộc viễn chinh đang neo đậu tại các thuộc địa ở xa hoặc đang được sửa chữa, và cuộc khủng hoảng phương Đông năm 1840 (và nguy cơ chiến tranh giữa Anh, PhápĐế chế OttomanSyria) đã thu hút sự chú ý của các hạm đội châu Âu của Hải quân Hoàng gia rời khỏi Trung Quốc. Mệnh lệnh tới Nam PhiÚc gửi tàu đến Singapore, điểm hẹn được chỉ định cho cuộc viễn chinh. Một số tàu hơi nước đã được Hải quân Hoàng gia mua và thêm vào đoàn với mục đích vận tải. Thời tiết mùa hè của Ấn ĐộEo biển Malacca đã làm chậm quá trình triển khai của Anh và một số vụ tai nạn đã làm giảm khả năng sẵn sàng chiến đấu của đoàn viễn chinh. Đáng chú ý nhất là cả hai tàu tàu chiến tuyến với mỗi cái chứa 74 cỗ pháo mà Hải quân Hoàng gia dự định sử dụng để chống lại các công sự của Trung Quốc đã tạm thời bị loại khỏi hành trình do thiệt hại ở thân tàu. Bất chấp những sự chậm trễ này, đến giữa tháng 6 năm 1840, các lực lượng Anh đã bắt đầu tập trung tại Singapore. Trong khi họ chờ đợi nhiều tàu đến, Thủy quân lục chiến Hoàng gia đã thực hành các cuộc xâm lược đổ bộ trên bãi biển, đầu tiên là đáp đất trên thuyền, sau đó lập trận hàng ngũ và tiến vào các công sự giả.

Tương quan lực lượng

Vào thời bấy giờ, quân Anh trang bị loại vũ khí tiêu chuẩn - súng hỏa mai nòng trơn mồi bằng đá lửa có gắn lưỡi lê. Trong khi đó, quân đội nhà Thanh chỉ có phân nửa người được sử dụng súng ống, đa phần là súng điểu thương. Loại súng điểu thương được quân Thanh sử dụng có kết cấu tương tự như súng hỏa mai của Anh quốc. Tuy nhiên, súng của quân Thanh có tốc độ xạ kích kém hơn (mỗi phút bắn ra 2 phát đạn), độ chính xác cũng thấp hơn so với súng đá lửa nòng trơn của quân địch.

Theo lý thuyết, súng của quân Anh mỗi phút có thể bắn ra 3 phát đạn, tỷ lệ trúng mục tiêu ở 50 mét là 90%. Trong khi đó, súng của Thanh quân chỉ bắn được 2 phát đạn một phút, tỷ lệ trúng đạt 70%. Giả sử trên chiến trường, mỗi bên có 10 quân sĩ, khoảng cách đến mục tiêu là như nhau, thì trong vòng 1 phút, quân Anh bắn được 30 phát súng, trúng 27 mục tiêu; còn quân Thanh bắn được 20 phát đạn và chỉ trúng 14 mục tiêu. Từ phép tính ấy, có thể thấy súng đá lửa nòng trơn của quân Anh có hiệu năng cao gấp 2 lần so với súng điểu thương của quân Thanh. Tuy nhiên đó là khi quân số 2 bên ngang nhau, còn thực tế thì quân Thanh đông hơn nhiều, nên hoàn toàn có thể dựa vào số lượng áp đảo để bù đắp thiếu hụt này.

Tương tự như súng ống, pháo của Trung Hoa cũng là loại cũ hơn, tầm bắn thấp hơn và và độ chính xác không cao.

Đội quân của Anh quốc được trang bị chiến thuyền có pháo giúp họ làm chủ mặt biển, cũng nắm trong tay quyền tấn công chủ động. Về mặt này thì quân Thanh hoàn toàn thua kém, hải quân Thanh chỉ toàn là các tàu buồm cỡ nhỏ, hỏa lực yếu và chạy chậm nên không thể đọ nổi với tàu Anh. Để phòng ngừa khả năng đổ bộ xâm lược của quân Anh, nhà Thanh triều phải bố trí phòng vệ ở mười mấy cửa biển, khiến lực lượng bị phân tán, lại thêm giao thông và liên lạc khó khăn đã khiến quân đội Thanh triều khó có thể tập trung binh lực.

Về chất lượng binh sỹ, quân Anh phần lớn được huấn luyện kỹ, có kỷ luật tốt và giàu kinh nghiệm chiến đấu. Còn quân đội nhà Thanh thì sau 200 năm hòa bình đã trở nên rất suy thoái, ngay cả quân Bát Kỳ được coi là tinh nhuệ nhất cũng đã suy đồi, trở nên yếu ớt, không còn khả năng chiến đấu dũng mãnh như thời kỳ lập quốc. Đến thời Đạo Quang, nhà vua từng thao duyệt hỏa khí doanh Bát kỳ ở kinh sư, là binh chủng chuyên về hỏa khí khi đó, trước giờ vẫn xưng là tinh hoa của Bát kỳ, vậy mà kết quả là đa phần đại pháo bắn không trúng bia, đạn thì có viên bay nửa chừng rớt xuống đất. Thậm chí quân Thanh giữ Sơn Hải quan bị thiếu hụt đại pháo giữ ải, phải lấy pháo cũ đã bỏ đi từ thời nhà Minh 200 năm trước đó để dự phòng.

Anh tấn công

Chiếm đóng Chu San, tháng 7 năm 1840

Vào cuối tháng 6 năm 1840, đội quân đầu tiên gồm 4.000 quân của lực lượng viễn chinh đã đến Trung Quốc trên 15 tàu doanh trại, 4 tàu pháo chạy bằng hơi nước và 25 tàu nhỏ hơn. Các đội tàu nằm dưới sự chỉ huy của Commodore Bremer. Người Anh đưa ra tối hậu thư yêu cầu Chính phủ nhà Thanh phải bồi thường thiệt hại do buôn bán bị gián đoạn và phá hủy thuốc phiện, nhưng đã bị chính quyền nhà Thanh từ chối ở Quảng Châu.

Sau khi chiến hạm Anh xuất hiện tại biển Quảng Ðông, Lâm Tắc Từ sợ chúng theo gió nam xâm phạm phía bắc; lập tức báo cho các tỉnh đề phòng. Ngoại trừ Ðặng Ðình Trinh mới được điều nhiệm chức Tổng đốc Mân Chiết có quân phòng, các tỉnh khác cho rằng sự việc xẩy ra tại Quảng Ðông nên không lưu ý.

Trong những lá thư của mình, Palmerston đã chỉ thị cho đại diện toàn quyền Elliot và người anh em họ của mình, Đô đốc George Elliot phải chiếm được ít nhất một hòn đảo để sau này tàu bè có thể thuận tiện buôn bán trên bờ biển Trung Quốc. Với lực lượng viễn chinh Anh hiện tại, một cuộc tấn công kết hợp giữa hải quân và lục quân đã được phát động trên quần đảo Chu San, Đảo Chu San, hòn đảo lớn nhất và được bảo vệ tốt nhất là mục tiêu chính cho cuộc tấn công, cũng như bến cảng quan trọng của nó là Đinh Hải. Khi hạm đội Anh tới được Chu San, Elliot yêu cầu thành phố đầu hàng. Chỉ huy đồn trú tại đây đã từ chối mệnh lệnh, nói rằng ông không thể đầu hàng và đặt câu hỏi người Anh có lí do gì mà tấn công Đinh Hải sau khi họ bị đuổi ra khỏi Quảng Châu. Chiến sự bắt đầu, một hạm đội gồm 12 tàu mành nhỏ đã bị hải quân Hoàng gia phá hủy và thủy quân lục chiến Anh chiếm được những ngọn đồi ở phía nam của Đinh Hải.

Hải quân Hoàng gia Anh lên kế hoạch chiếm đảo Chu San mà mục tiêu chính là kiểm soát cảng Định Hải, mở đường cho các hoạt động quân sự của Anh ở Trung Quốc. Cuộc chiến diễn ra chóng vánh trong hai ngày 5-6/7/1840, khi 5 tàu chiến Anh đánh chìm 13 tàu chiến Trung Quốc, mở đường để 3.650 binh sĩ Anh đổ bộ lên đảo. Thương vong bên phía Anh chỉ duy nhất một người. Quân Anh cướp bóc rất nhiều, khiến dân Trung Quốc căm thù, trật tự không dễ duy trì, việc cấp dưỡng cho quân Anh gặp khó khăn, không ít bị nhiễm bệnh hoặc tử vong.

Vào mùa thu năm 1840, dịch bệnh bùng phát tại đồn trú, buộc người Anh phải sơ tán binh lính đến ManilaCalcutta. Đến đầu năm 1841, chỉ còn 1900 trong số 3300 lính ban đầu chiếm đóng Đinh Hải, với nhiều người còn lại không có khả năng chiến đấu. Ước tính 500 binh sĩ Anh đã chết vì bệnh tật, trong đó các tình nguyện viên Cameron và Bengal thiệt mạng nhiều nhất, trong khi Thủy quân lục chiến Hoàng gia tương đối ổn định.

Tàu Anh đánh chìm tàu Trung Quốc trong Chiến tranh Nha phiến

Sau khi chiếm được Đinh Hải, đoàn viễn chinh Anh chia lực lượng, gửi một hạm đội về phía nam tới sông Châu Giang trong khi gửi một hạm đội thứ hai về phía bắc đến Hoàng Hải. Hạm đội phía bắc đi thuyền đến Hải Hà, nơi Elliot đích thân trình thư của Palmerston cho Hoàng đế với chính quyền nhà Thanh tại thủ đô. Kỳ Thiện (ᡴᡳᡧᠠᠨ), một quan chức cấp cao Mãn Thanh, đã được Triều đình chọn để thay thế Lâm làm Tổng đốc Lưỡng Quảng sau khi ông ta bị phế truất vì không giải quyết được tình trạng thuốc phiện. Các cuộc đàm phán đã bắt đầu giữa hai bên, với Kỳ Thiện đóng vai trò là nhà đàm phán chính cho triều Thanh và Elliot làm đại diện cho Vương quốc Anh. Sau một tuần đàm phán, Kỳ Thiện và Elliot đã đồng tới sông Châu Giang để đàm phán thêm. Để đáp lễ cho sự triệt thoái của lực lượng hải quân Anh khỏi Hoàng Hải, Kỳ Thiện hứa sẽ trưng dụng các quỹ của đế quốc để bồi thường cho các thương nhân người Anh đã bị thiệt hại. Chiến tranh, tuy nhiên, sẽ không kết thúc và cả hai bên tiếp tục giao chiến với nhau. Vào cuối mùa xuân năm 1841, quân tiếp viện đến từ Ấn Độ để chuẩn bị cho một cuộc tấn công chống lại Quảng Châu. Một đội tàu vận tải đã đưa 600 lính Bộ binh Madras được đào tạo chuyên nghiệp đến Đinh Hải, nơi mà sự xuất hiện của họ đã thúc đẩy tinh thần Anh. Đồng hành cùng hạm đội cho đến tận Ma Cao (Áo Môn) là tàu hơi nước sắt mới được chế tạo HMS Nemesis, vũ khí mà hải quân Trung Quốc không có đối trọng hiệu quả. Vào ngày 19 tháng 8, ba tàu chiến Anh và 380 lính thủy đánh bộ đẩy lui người Trung Quốc trên một cây cầu (được gọi là "The Barrier") ngăn cách Áo Môn với lục địa Trung Quốc. Sự thất bại của những người lính nhà Thanh cùng với sự xuất hiện của Nemesis ở bến cảng của Áo Môn đã dẫn đến một làn sóng ủng hộ thân Anh trong thành phố, và một số quan chức nhà Thanh bị đuổi ra hoặc bị giết. Bồ Đào Nha vẫn trung lập trong cuộc xung đột, nhưng sau chiến thắng này, họ đã sẵn sàng cho phép các tàu của Anh cập cảng tại Áo Môn, một quyết định đã trao cho Anh một cảng hoạt động ở miền Nam Trung Quốc. Với các bến cảng chiến lược của Đinh Hải và Áo Môn được bảo đảm, người Anh bắt đầu tập trung vào cuộc chiến trên sông Châu Giang. Năm tháng sau chiến thắng của người Anh tại Chu San, quân đoàn phía bắc của đã đi về phía nam đến Hổ Môn, được người Anh gọi là The Hổ Môn. Bremer đánh giá rằng việc giành quyền kiểm soát sông Châu Giang và Quảng Châu sẽ đưa người Anh vào vị thế đàm phán mạnh mẽ so với chính quyền nhà Thanh, cũng như cho phép đổi mới thương mại sau khi chiến tranh kết thúc.

Chiến dịch Châu Giang

Trong khi người Anh hoạt động ở phía bắc, Đô đốc Quan Thiên Bồi củng cố các vị trí của nhà Thanh ở Hổ Môn, nghi ngờ (nguồn tin cho biết Quan đã chuẩn bị cho một cuộc tấn công cuối cùng vào vị trí kể từ cuộc tấn công của Napier năm 1835) rằng người Anh sẽ tiến công dọc lên sông Châu Giang đến Quảng Châu. Các pháo đài Hổ Môn được đặt tại giao lưu của dòng sông, và được giữ bởi 3000 lính và 306 khẩu pháo. Vào thời điểm hạm đội Anh sẵn sàng hành động, 10.000 lính Thanh đã vào vị trí để bảo vệ Quảng Châu và khu vực xung quanh. Hạm đội Anh đến vào đầu tháng 1 và bắt đầu bắn phá các tuyến phòng thủ của nhà Thanh tại Xuyên Tỵ sau khi một nhóm các tàu bốc lửa của Trung Quốc được gửi trôi dạt về phía các tàu hải quân Hoàng gia. Vào ngày 7 tháng 1 năm 1841, người Anh đã giành chiến thắng quyết định tại Trận Xuyên Tỵ lần thứ hai, tiêu diệt 11 thuyền chiến của hạm đội miền nam Trung Quốc và chiếm đóng các pháo đài Hổ Môn. Chiến thắng cho phép người Anh thiết lập một tuyến phong tỏa Hổ Môn, một đòn đánh buộc hải quân nhà Thanh phải rút lui ngược dòng.

Quân Anh xuất hiện vùng cửa khẩu Bạch Hà (Ðại Cô, Thiên Tân). Tâm lý vua Ðạo Quang đã bị dao động, hiện tại hạm đội Anh đến gần kinh kỳ, uy lực mạnh như vậy, đại họa trong gang tấc; nhưng đối với riêng nhà vua thì lời lẽ của Anh quốc vẫn tỏ ra cung kính, đề cập rằng nước Anh động binh vì giận quan binh tại Quảng Châu. Đạo Quang bèn dựa theo lời lẽ của họ, sai Kỳ Thiện đi đàm phán.

Kỳ Thiện hứa hẹn với nước Anh là sẽ bồi thường thiệt hại và xử phạt các quan lại ở Quảng Đông, hơn nữa phía bắc khí hậu lạnh không tiện dừng lâu, quan quân tại Ðịnh Hải mắc nhiều bệnh, bèn chấp thuận trở về Quảng Ðông, trả lại Ðịnh Hải cho Trung Quốc, để đợi tiếp tục nghị bàn. Trung tuần tháng 9/1840, hạm đội Anh rời Ðại Cô [Thiên Tân] hướng về phía nam. Riêng Lâm Tắc Từ, Ðặng Ðình Trinh bị cách chức nghị xử. Lâm Tắc Từ sau khi bị tội, vẫn ra sức tâu nha phiến đáng nghiêm trừng, người Anh dục vọng vô đáy, việc phòng biển không thể xem thường, cần phải tạo thuyền chế pháo; lúc này vua Ðạo Quang chỉ muốn hòa hoãn, nên chê rằng “lời tâu hồ đồ”.

Biết được giá trị chiến lược của vùng châu thổ sông Châu Giang đối với Trung Quốc và nhận thấy rằng ưu thế hải quân của Anh đã khiến một cuộc tái chiếm khu vực khó thành hiện thực, Kỳ Thiện đã cố gắng ngăn cuộc chiến lan rộng hơn nữa bằng cách đàm phán hòa bình với Anh. Vào ngày 21 tháng 1, Kỳ Thiện và Elliot đã soạn thảo Công ước Xuyên Tỵ, một tài liệu mà cả hai bên hy vọng sẽ chấm dứt chiến tranh. Công ước sẽ thiết lập các quyền ngoại giao bình đẳng giữa Anh và Trung Quốc, đổi đảo Hồng Kông lấy Chu San, tạo điều kiện giải phóng các công dân Anh bị đắm tàu ​​và bắt cóc do Trung Quốc nắm giữ, và mở lại thương mại tại Quảng Châu vào ngày 1 tháng 2 năm 1841.Trung Quốc cũng sẽ trả 6 triệu đô la bạc để bồi thường cho chỗ thuốc phiện bị phá hủy tại Hổ Môn vào năm 1838. Tuy nhiên, tình trạng pháp lý của việc buôn bán thuốc phiện không được giải quyết và thay vào đó sẽ bị bỏ ngỏ để thảo luận vào một ngày trong tương lai.

Vào cuối tháng 11/1840, Kỳ Thiện đến Quảng Châu đàm phán với Charles Elliot. Kỳ Thiện bằng lòng bồi thường một phần tiền nha phiến, giao thiệp hai bên bình hành, nhưng cự tuyệt việc cắt hải đảo cho Anh. Ðạo Quang cho điều binh tăng viện Quảng Ðông, chuẩn bị đánh dẹp. Charles Elliot cũng thấy được ý đồ của Kỳ Thiện, nên quyết định đánh xong rồi thương nghị. Vào ngày 17/1/1841, quân Anh đột kích các pháo đài tại Ðại Giác, Sa Giác thuộc Hổ Môn [Quảng Ðông]; quân phòng thủ tử thương hơn 700, 11 binh thuyền bị thiêu hủy.

Kỳ Thiện nhượng bộ, lập hiệp nghị sơ bộ với Charles Elliot được gọi là “Xuyên Tỵ thảo ước”, đồng ý cắt nhường Hồng Kông, bồi thương 600 vạn nguyên, hai nước giao dịch bình đẳng, khôi phục mậu dịch tại Quảng Châu, phóng thích người Anh bị bắt tại Chiết Giang; quân Anh trả lại Sa Giác, Ðại Giác, cùng Ðịnh Hải. Ngày 26/1/1841, Hương Cảng chính thức rơi vào tay quân Anh.

Bất chấp sự thành công của các cuộc đàm phán giữa Kỳ Thiện và Elliot, cả hai chính phủ tương ứng của họ đều từ chối ký kết công ước. Hầu Tước Palmerston triệu hồi Elliot và từ chối ký kết công ước, muốn có thêm sự nhượng bộ từ phía Trung Quốc theo chỉ thị ban đầu của ông. Còn vua Ðạo Quang muốn Kỳ Thiện đánh dẹp, lại nhận được tin không giữ được Ðại Giác, Sa Giác thì lại càng thêm giận dữ, bèn tuyên chiến với quân Anh vào ngày 27/1/1841, mệnh Kỳ Thiện và Y Lý Bố tại Chiết Giang cùng tiến quân. Ba ngày sau được tin Kỳ Thiện đã nhượng cho người Anh đất Hương Cảng, bèn phái thêm người cháu là Dịch Sơn làm Tĩnh nghịch tướng quân; cùng Quân cơ đại thần Thượng thư bộ Hộ Long Văn, Ðề đốc Hồ Nam Dương Phương làm Tham tán đại thần đến Quảng Châu tăng viện; cùng phủ nhận Xuyên Tỵ thảo ước. Ngoài ra Đạo Quang thảo chiếu chỉ trách mắng Kỳ Thiện nặng nề, bắt giải về kinh cùng tịch thu tài sản.

Đề đốc Quan Thiên Bồi

Quân Anh ra tay hành động trước. Ngày 26/1/1841, tức trước khi Bắc Kinh tuyên chiến một ngày, quân Anh tổng công kích Hổ Môn, pháo đài đều bị hủy hết, Ðề đốc Quan Thiên Bồi đốc chiến tới cùng và đã tử trận. Ngày thứ hai, pháo đài Ô Dõng tại Hổ Môn bị chiếm, quân phòng thủ bị bắt và giết hơn 1.000, số còn lại đào ngũ; binh thuyền Anh tiến đến Hoàng Phố (Quảng Ðông). Ngày thứ ba, Tham tán Dương Phương đến nơi, xin đình chiến. Quân các tỉnh đến tham chiến, thì chỉ lo mưu lợi “ngày ngày báo cáo tiêu dùng lương, tranh được cung ứng” còn việc đánh giặc không lo đến.

Tàu Anh tiếp cận Quảng Châu tháng 5 năm 1841

Cuộc giao tranh ngắn ngủi đã kết thúc vào đầu tháng 2 sau khi người Trung Quốc từ chối mở lại Quảng Châu cho thương mại của Anh. Vào ngày 19 tháng 2, một chiếc thuyền dài từ HMS Nemesis bị bắn bởi một pháo đài trên đảo Bắc Wangtong, gây ra phản ứng của người Anh.[135] Các chỉ huy người Anh đã ra lệnh phong tỏa dòng sông Châu Giang một lần nữa và tiếp tục các hoạt động chiến đấu chống lại Trung Quốc. Người Anh đã chiếm được các pháo đài Hổ Môn còn lại vào ngày 26 tháng 2 trong trận Hổ Môntrận First Bar vào ngày hôm sau, cho phép hạm đội di chuyển ngược dòng về phía Quảng Châu. Đô đốc Thiên Bồi tử trận trong khi chiến đấu vào ngày 26 tháng 2. Vào ngày 2 tháng 3, người Anh đã phá hủy một pháo đài gần Bà Châu và chiếm được Hoàng Phố, một hành động đe dọa trực tiếp đến sườn phía đông của Quảng Châu. Thiếu tướng Gough, người vừa đến từ Madras trên tàu HMS Cruizer, đã đích thân chỉ đạo cuộc tấn công vào Hoàng Phố. Tổng giám đốc Elliot (người không biết rằng mình đã bị cách chức), và Toàn quyền Quảng Châu đã tuyên bố đình chiến 3 ngày vào ngày 3 tháng 3. Từ ngày 3 đến ngày 6, các lực lượng Anh đã di tản khỏi Chu San theo Công ước Xuyên Tỵ đến sông Châu Giang. Quân đội Trung Quốc cũng được tăng cường tương tự, và đến ngày 16 tháng 3, Tướng Dương Phương đã chỉ huy 30.000 người trong khu vực xung quanh Quảng Châu.

Trong khi hạm đội chính của Anh chuẩn bị tiến đến Quảng Châu, một nhóm ba tàu chiến đã khởi hành đến cửa sông Tây Giang, dự định tìm tuyến đường thủy giữa Ma Cao và Quảng Châu. Hạm đội, do Thuyền trưởng James Scott và Giám thị Elliot dẫn đầu, bao gồm tàu frigate HMS Samarang và tàu hơi nước HMS Nemesis và HMS Atalanta. Mặc dù mực nước ở những nơi này chỉ sâu 6 feet, nhưng đáy nông của tàu hơi nước cho phép người Anh tiếp cận Quảng Châu từ một hướng mà nhà Thanh tin là bất khả thi. Trong một loạt các cuộc giao chiến dọc theo sông từ ngày 13-15 tháng 3, người Anh đã bắt hoặc phá hủy nhiều tàu, súng và các thiết bị quân sự của Trung Quốc. 9 tàu mảnh, 6 pháo đài và 105 khẩu súng đã bị phá hủy hoặc bị tịch thu trong cuộc viễn chinh Broadway.

Bản đồ sông Châu Giang của Anh.

Không còn chướng ngại vật, người Anh tranh luận về việc tiến tới Quảng Châu. Mặc dù thỏa thuận ngừng bắn đã kết thúc vào ngày 6 tháng 3, Giám thị Elliot tin rằng người Anh nên đàm phán với chính quyền nhà Thanh với vị thế sức mạnh hiện tại của họ thay vì mạo hiểm chiến đấu ở Quảng Châu. Quân đội nhà Thanh không có động thái mạnh mẽ chống lại người Anh và thay vào đó bắt đầu củng cố thành phố. Các kỹ sư quân sự Trung Quốc bắt đầu thiết lập một số công sự đất bùn trên bờ sông, đánh chìm thuyền chiến để cản dòng sông, và bắt đầu xây dựng những chiếc bè lửa và pháo hạm. Các thương nhân Trung Quốc đã được lệnh loại bỏ tất cả lụa và trà khỏi Quảng Châu để cản trở thương mại, và người dân địa phương không được bán thức ăn cho các tàu của Anh trên sông. Vào ngày 16 tháng 3, một con tàu của Anh tiếp cận một pháo đài Trung Quốc dưới một lá cờ ngừng bắn đã bị nã đạn vào, dẫn đến việc người Anh công phá pháo đài bằng tên lửa. Những hành động này đã thuyết phục Elliot rằng người Trung Quốc đang chuẩn bị chiến đấu, và sau khi các tàu của đoàn thám hiểm Broadway quay trở lại hạm đội, người Anh tấn công Quảng Châu vào ngày 18 tháng 3, chiếm đóng mười ba nhà máy với rất ít thương vong và cắm cờ Union Jack trên nhà máy của Anh. Thành phố bị chiếm đóng một phần bởi người Anh và thương mại đã được mở cửa trở lại sau các đàm phán với các công hành trong thành phố. Sau nhiều ngày thành công về quân sự, các lực lượng Anh đã làm chủ hoàn toàn các vùng đất cao quanh Quảng Châu. Một thỏa thuận ngừng bắn khác được tuyên bố vào ngày 20 tháng 3. Chống lại lời khuyên của một số thuyền trưởng, Elliot đã rút hầu hết các tàu chiến của Hải quân Hoàng gia xuôi dòng xuống vịnh Hổ Môn.

Lính Anh chiếm đóng các cao điểm tại Quảng Châu năm 1841.

Vào giữa tháng Tư, Dịch Sơn (người thay thế Kỳ Thiện làm Tổng đốc Lưỡng Quảng và là em họ của Hoàng đế Đạo Quang) đã đến Quảng Châu. Ông tuyên bố rằng thương mại nên được tiếp tục duy trì, phái sứ giả đến chỗ Elliot và chuẩn bị quân đội bên ngoài Quảng Châu. Quân đội nhà Thanh cắm trại bên ngoài thành phố gồm 50.000 người, và số tiền kiếm được từ thương mại mở cửa đã được dùng để sửa chữa và mở rộng hệ thống phòng thủ của Quảng Châu. Các ụ pháo ngụy trang được xây dựng dọc theo sông Châu Giang, binh lính Trung Quốc được triển khai ở Hoàng Phố và vịnh Hổ Môn, và hàng trăm tàu ​​nhỏ trên sông được trang bị cho chiến tranh. Hoàng đế ban xuống chiếu chỉ ta lệnh cho lực lượng quân đội "tiêu diệt phiến quân tại mọi điểm" và đẩy người Anh khỏi dòng Châu Giang rồi lấy lại Hồng Kông và đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi Trung Quốc hoàn toàn. Mệnh lệnh này bị bại lộ và lọt vào tai của các thương nhân nước ngoài, những người đã nghi ngờ về ý định của Trung Quốc sau khi biết quân đội nhà Thanh đang tập trung ngoài thành phố. Vào tháng 5, nhiều thương nhân công hành và gia đình của họ đã rời khỏi thành phố, làm tăng thêm mối lo ngại về một đòn đánh trả thù. Tin đồn lan truyền rằng các người nhái Trung Quốc đang được huấn luyện để khoan lỗ trên thân tàu Anh và các đội bè lửa đang được chuẩn bị để triển khai chống lại Hải quân Hoàng gia. Trong quá trình chuẩn bị, quân đội nhà Thanh bị suy yếu do đấu đá giữa các đơn vị và sự thiếu tin tưởng vào Dịch Sơn. Ông không trọng dụng người Quảng Đông mà chọn lính lấy từ các tỉnh lị khác để chiến đấu ở đây. Vào ngày 20 tháng 5, Dịch Sơn đã đưa ra một tuyên bố, yêu cầu "người dân Quảng Châu và tất cả các thương nhân nước ngoài ngoan ngoãn, không nên lo chừng và sợ hãi trước sự hiện diện của quân đội, sẽ không có khả năng xảy ra chiến tranh." Ngày hôm sau Elliot yêu cầu tất cả các thương nhân người Anh di tản khỏi thành phố trước lúc hoàng hôn, và một số tàu chiến được hiệu triệu tới trước Quảng Châu.

Vào đêm ngày 21 tháng 5, khoảng 1.700 quân nhà Thanh đã phát động một cuộc tấn công ban đêm phối hợp vào quân đội và hải quân Anh. Các đài pháo ngụy trang ở Quảng Châu và trên sông Châu Giang (nhiều người Anh tin rằng họ đã vô hiệu hóa chúng trước đó) khai hỏa, và lính Thanh đã chiếm lại Nhà máy của Anh. Một đội hình lớn gồm 200 bè lửa được nối với nhau bằng xích được thả trôi về phía các tàu của Anh tại Quảng Châu, và những chiếc thuyền đánh cá được trang bị súng hỏa thương bắt đầu giao chiến với Hải quân Hoàng gia. Các tàu chiến Anh đã có thể tránh được, và những chiếc bè trôi lạc đốt cháy trên bờ sông Quảng Châu, thắp sáng dòng sông và làm lộ rõ cuộc tấn công ban đêm. Tại Hoàng Phố, người Trung Quốc tấn công các tàu của Anh đang neo đậu ở đó và ngăn tàu đến được Quảng Châu.

Do đã nghi ngờ một cuộc tấn công, (và do hậu quả là trì hoãn cuộc tấn công của chính mình) Thiếu tướng Gough đã củng cố các lực lượng Anh tại Hồng Kông và ra lệnh tiến quân nhanh chóng đến Quảng Châu. Quân tăng viện đến vào ngày 25 tháng 5, và 2,400 quân Anh phản công, chiếm được bốn pháo đài cuối cùng của nhà Thanh bên trên bang Quảng Châu và bắn phá thành phố. Quân đội nhà Thanh bỏ chạy trong hoảng loạn khi cao điểm thành phố bị chiếm, và người Anh truy đuổi họ về vùng nông thôn. Trong 4 ngày, các vị trí quan trọng tại Quảng Châu đều mất, ngoài thành lửa cháy; Dịch Sơn chỉ huy 18.000 quân rút vào trong thành, tình trạng tuyệt vọng.

Trong khi quân đội triều đình hủ bại thì tinh thần phản kháng của nhân dân lại rất mãnh liệt. Qua một năm, nhờ sự cổ vũ của Lâm Tắc Từ, nhân dân Quảng Ðông tham gia tổ chức đoàn luyện, tinh thần chống địch dấy lên. Ngày 29/5/1841, quân Anh trên đường triệt thoái khỏi ngoại ô Quảng Châu đã cướp phá hiếp dâm; nên khoảng 200 quân Anh bị hơn 1000 dân vây tại vùng Tam Nguyên Lý [Quảng Ðông] phía bắc thành. Ngày hôm sau, 2.000 quân Anh đến tiếp viện, dân chúng vẫn không chịu rút; lúc bấy giờ mưa gió nổi lên, súng quân Anh bắn không hiệu quả, trong lúc giao tranh tử thương 20 người. Qua sự khuyên giải của viên Tri phủ Quảng Ðông mới được yên; đó là lần thứ nhất dân Quảng Ðông có hành động trực tiếp chống quân Anh. Kế đó nhân dân ban bố cáo văn “Thệ diệt Anh nghịch”, tinh thần cao, lòng tự tin mạnh; rồi các tổ chức chống Anh lần lượt thành lập.

Ngày 27/5, Charles Elliot cùng đại biểu của Dịch Sơn đính lập điều ước như sau: Trong 6 ngày, Khâm sai đại thần Trung Quốc cùng quân lính rút ra khỏi thành 60 lý, nạp tiền chuộc thành 600 vạn, sau khi giao xong quân Anh rút ra khỏi Hổ Môn. Khi chưa giải quyết xong, không được đặt quân phòng thủ ; lại bồi thường tổn thất tại Di quán số tiền 30 vạn.

Cuộc chiến đã lắng xuống vào ngày 30 tháng 5 năm 1841 và Quảng Châu hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Anh. Sau khi chiếm được Quảng Châu, bộ chỉ huy của Anh và tổng đốc Quảng Châu đã đồng ý ngừng bắn trong khu vực. Theo các điều khoản của hòa bình hạn chế (sau này được gọi rộng rãi là "The Ransom of Quảng Châu"), người Anh đã được trả tiền để rút ra khỏi pháo đài Hổ Môn, một hành động mà họ đã hoàn thành trước ngày 31 tháng 5. Hiệp ước hòa bình được Elliot ký kết mà không hỏi ý kiến ​​quân đội hoặc Hải quân Anh, một hành động làm mất lòng tướng Gough.

Tấn công Trung nguyên

HMS Wellesley và hải đoàn Anh dong buồm từ Hồng Kông tiến tới Hạ Môn năm 1841.

Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng H. J. T. Palmerston trách cứ Charles Elliot đòi hỏi quá ít quyền lực khi đàm phán, vào ngày 30/4 đã triệu hồi Charles Elliot; cử Henry Pottinger [Phác Ðỉnh Tra] làm Toàn quyền với sứ mệnh đòi nhiều tiền bồi thường, buộc Trung Quốc mở thêm các cửa khẩu. Sir Henry Pottinger rời nước Anh vào ngày 5/6/1841, đến Áo Môn vào ngày 10/8, đây là chuyến đi nhanh nhất từ Âu Châu đên viễn đông lúc bấy giờ.

Sau khi rút khỏi Quảng Châu, người Anh đã chuyển lực lượng viễn chinh tới Hồng Kông. Cũng giống như với các chỉ huy Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Anh đã tranh luận về việc cuộc chiến nên tiếp tục như thế nào. Elliot muốn ngừng các hoạt động quân sự và mở lại thương mại, trong khi Thiếu tướng Gough muốn chiếm thành phố Hạ Môn và phong tỏa sông Dương Tử. Vào tháng 7, một cơn bão càn quét qua Hồng Kông, làm hư hại các tàu của Anh ở bến cảng và phá hủy một số cơ sở mà đoàn viễn chinh đang xây dựng trên đảo. Tình hình biến động khi vào ngày 29 tháng 7, Elliot được thông báo là ông đã bị thay thế trong chức Giám thị bởi Henry Pottinger, người đã tới Hồng Kông vào ngày 10 tháng 8 để chuyển giao. Pottinger muốn đàm phán các điều khoản với nhà Thanh cho toàn bộ đất nước Trung Quốc, thay vì chỉ sông Châu Giang, và vì vậy ông đã từ chối các đặc phái viên Trung Quốc tới Quảng Châu và cho phép lực lượng viễn chinh tiến hành các kế hoạch chiến tranh. Đô đốc Ngài William Parker cũng đến Hồng Kông để thay thế Humphrey Fleming Senhouse (người đã chết vì sốt nặng vào ngày 29 tháng 6) với tư cách là chỉ huy lực lượng hải quân Anh tại Trung Quốc. Bộ chỉ huy Anh đã đồng ý rằng các hoạt động chiến đấu chuyển hướng lên phía bắc để đe dọa Bắc Kinh.

Vào ngày 21 tháng 8, quân Anh huy động 3.500 người, xâm phạm phương bắc lần thứ hai. Bước thứ nhất đánh Hạ Môn [Phúc Kiến]. Vào ngày 25 tháng 8, hạm đội Anh tiến vào cửa sông Long Giang và Hạ Môn. Thành phố đã được chuẩn bị cho một cuộc tấn công của hải quân, vì các kỹ sư quân sự nhà Thanh đã xây dựng nhiều khẩu pháo vào vách đá granit nhìn ra sông. Một cuộc tấn công thuần túy của hải quân được coi là quá mạo hiểm bởi Parker, khiến Gough ra lệnh cho cuộc tấn công phối hợp giữa hải quân và lục quân vào các tuyến phòng thủ. Vào ngày 26 tháng 8, lính thủy đánh bộ và bộ binh chính quy của Anh (với hỏa lực yểm trợ từ Hải quân Hoàng gia) đã tấn công và phá hủy tuyến phòng thủ của Trung Quốc bảo vệ dòng sông. Một số tàu lớn của Anh đã thất bại trong việc phá hủy các ụ pháo lớn của Trung Quốc (chúng chịu được hơn 12.000 quả đạn đại bác bắn vào), vì vậy bộ binh Anh phải leo núi và chiếm các cứ điểm này. Thành phố Hạ Môn đã bị bỏ hoang vào ngày 27 tháng 8 và những người lính Anh tiếp quản thành phố phá hủy kho đạn dược của tòa thành. 26 lính Trung Quốc và 128 khẩu pháo bị bắt, với những khẩu súng bị ném xuống sông bởi người Anh. Vì Hầu tước Palmerston muốn Hạ Môn trở thành một cảng thương mại quốc tế vào cuối cuộc chiến, Gough đã ra lệnh rằng tội cướp bóc sẽ bị trừng phạt và các sĩ quan có quyền giết những kẻ phạm tội. Tuy nhiên, nhiều thương nhân Trung Quốc đã từ chối chế độ bảo hộ của Anh vì sợ bị coi là kẻ phản bội nhà Thanh. Người Anh đã rút đến một hòn đảo trên sông, nơi họ thành lập một đồn trú nhỏ và phong tỏa Long Giang. Với thành phố không còn quân đội, nông dân, tội phạm và những kẻ đào ngũ cướp phá thị trấn. Quân đội nhà Thanh đã chiếm lại thành phố và lập lại trật tự vài ngày sau đó, thống đốc thành phố tuyên bố rằng một chiến thắng đã giành được và 5 tàu Anh bị đánh chìm. Trong trận này, Tổng binh Giang Kế Vân tử trận.

Quân Anh phá pháo đài Hạ Môn, rồi tiếp tục tiến đến Ðịnh Hải [Chiết Giang]. Tại nơi này trong mấy tháng nay, viên Khâm sai đại thần Dụ Khiêm phụ trách tỉnh Chiết Giang tích cực đề phòng, quân số khoảng 7.000. Quân Anh 3 lần tấn công, 3 viên Tổng binh Trịnh Quốc Hồng, Cát Vân Phi, Vương Tích Bằng mãnh liệt chống cự, cuối cùng vì vũ khí thua sút, lần lượt trận vong, quân lính tổn thất hơn 1.000; quân Anh tử trận khoảng 30 người chưa kể số bị thương.

Ðịnh Hải thất thủ lần thứ hai vào ngày 1/10/1841, tuy nhiên dân chúng chống trả, người Anh chỉ kiểm soát được trong phạm vi 10 dặm xung quanh huyện thành, để làm chỗ dừng quân mùa đông, chờ đại binh tới. Vào ngày 10/10, quân Anh tiếp tục chiếm Trấn Hải [Chiết Giang], Dụ Khiêm trầm mình tự vẫn, Tổng binh Tạ Triều Ân đánh đến cùng rồi tử trận. Ngày 13, quân Anh chiếm lấy Ninh Ba [Chiết Giang], cướp bóc gian dâm, bị dân chúng chống đối bắt được hơn 40 quân Anh.

Vào ngày 10 tháng 10, một lực lượng hải quân Anh đã pháo kích và chiếm được một pháo đài ở ngoại ô Ninh Ba miền trung Trung Quốc. Một trận chiến nổ ra giữa quân đội Anh và một lực lượng Trung Quốc gồm 1500 người trên con đường giữa thị trấn Thành Hải và Ninh Ba, quân Thanh thua lớn. Sau thất bại, chính quyền Trung Quốc đã sơ tán Ninh Ba và thành phố bị người Anh chiếm giữ vào ngày 13 tháng 10. Một xưởng sản xuất pháo của đế quốc trong thành phố đã bị người Anh bắt giữ, khiên nhà Thanh không thể cung cấp thiết bị mới, và sự sụp đổ của thành phố đã đe dọa sông Tiền Đường gần đó. Việc chiếm giữ Ninh Ba đã buộc bộ chỉ huy Anh phải xem xét lại chính sách của họ đối với lãnh thổ Trung Quốc đang bị chiếm đóng và chiến lợi phẩm chiến tranh. Đô đốc Parker và Tổng giám đốc Pottinger muốn tài sản Trung Quốc đang bị chiếm được nhượng lại cho Anh như là chiến lợi phẩm hợp pháp từ chiến tranh, trong khi Tướng Gough cho rằng điều này sẽ chỉ khiến dân Trung Quốc chống lại người Anh, và nếu chỗ tài sản phải bị tịch thu, nó sẽ phải là tài sản công cộng chứ không phải tư nhân. Chính sách của Anh cuối cùng đi đến quyết định rằng 10% tất cả tài sản bị lực lượng viễn chinh Anh bắt giữ sẽ bị tịch thu như một chiến lợi phẩm để trả thù cho những bất công đối với các thương nhân Anh. Gough sau đó tuyên bố rằng sắc lệnh này sẽ buộc người của ông "trừng phạt một nhóm cướp vì lợi ích của người khác."

Ngày 10/3/1842, nhà Thanh huy động quân thủy lục 3 cánh cùng tiến, 1 cánh vào được thành Ninh Ba, nhưng bị đánh lui. Hơn 1.200 quân Anh truy kích đến Từ Khê [Chiết Giang], phía tây bắc Ninh Ba; quân hai bên giáp lá cà, quân Thanh chết gần 1.000 người trong đó có Phó tướng Chu Quí, phía quân Anh tổn thất hơn 20 người; suốt mấy tháng chuẩn bị phản công bị thất bại hoàn toàn.

Quân Anh sau khi được tăng viện, bèn tấn công yếu địa Sạ Phố tại vùng vịnh Hàng Châu [bắc Chiết Giang]. Vùng này quân phòng thủ trên 6.000 người. Vào ngày 8/5 quân Anh đổ bộ, lực lượng phòng thủ gồm quân Thiểm Tây, Cam Túc và kỳ binh kháng cự, cuối cùng cũng không cứu được Sạ Phố. Quân Thanh tử thương hơn 600 người, dân chúng bị giết hơn 700; quân Anh mất 30 người chết trong đó có 1 Thượng hiệu, bị thương 62 người. Vào đầu tháng 6, Hải quân Anh đến cửa khẩu Ngô Tùng [Thượng Hải], tại đây quân phòng thủ khoảng 1 vạn người. Sáng ngày 16 bắt đầu đánh, qua 2 giờ đồng hồ, Tổng đốc Lưỡng Giang Ngưu Giám sợ hãi bỏ trốn, Ðề đốc Giang Nam Trần Hoa Thành tử trận; Ngô Tùng, Bảo Sơn [Thượng Hải] đều mất, quân ở Thượng Hải bỏ thành chạy.

Mục tiêu kế tiếp của quân Anh là Trấn Giang, nơi giao điểm của Trường Giang và Vận Hà, cùng cố đô Nam Kinh. Vào tháng 7 đại quân Anh gồm 50 tàu chiến, 10 chiếc thuyền hơi nước, hơn 50 thuyền vận tải, 9.000 quân binh ngược theo sông Trường Giang. Quân Thanh tại ải Giang Âm [Giang Tô] quan trọng ven sông Trường Giang bỏ chạy, quân Anh bình yên ngược sông đến Trấn Giang. Quân trú phòng tại Trấn Giang gồm 6.000; thành trong là quân Bát Kỳ, thành ngoài là Lục doanh [người Hán]. Ngày 21/7, hơn 6.000 quân Anh, sau khi đánh chiếm thành ngoài, đánh thẳng vào thành trong; cùng với 1.500 quân Bát Kỳ cận chiến, quân Anh bị chết hơn 170 người, quân Kỳ chết khoảng 600, dân chúng tử thương rất nhiều, toàn thành bị đốt cướp, tan hoang. Ðối ngạn với Trấn Giang là thành Dương Châu rất lo lắng, chấp nhận nạp 50 vạn tiền cho quân Anh, nên không bị chiếm lãnh. Nhưng dân tại Trấn Giang và Dương Châu [Yangzhou] vẫn không chịu khuất phục, tiếp tục chống cự; vào ngày 4/8/1842 quân Anh tiến bức Nam Kinh.

Tháng 8/1842, Hải quân Anh đã kiểm soát Trường Giang. Chỉ trong vòng một tháng, quân Anh chiếm Thượng Hải, Chiết Giang, làm gián đoạn tuyến đường vận lương, khiến nhà Thanh kiệt quệ, buộc phải đàm phán. Tổng đốc Lưỡng Giang Ngưu Giám xin hòa; Henry Pottinger [Phác Ðỉnh Tra] đáp rằng đợi Khâm sai đại thần Kỳ Anh, Y Lý Bố đến sẽ thuận theo lời yêu cầu, có thể không đánh thành.